PHÁP THOẠI GIỮA VƯỜN MAI

Chỉ còn ít ngày nữa là tròn một năm kể từ ngày Thầy về cõi Phật. Lý trí vẫn luôn nhắc con rằng: Thầy là bậc danh Tăng, nay đã hòa nhập vào pháp thân thanh tịnh, hay có lẽ đã tái hiện bi nguyện giữa cõi Ta bà để tiếp tục con đường Bồ-tát đạo. Nhưng trong sâu thẳm cảm xúc, suốt một năm qua, mỗi sáng dâng trà hay mỗi khi lễ bái trước di ảnh Thầy, lòng con lại dâng lên ngổn ngang tâm tưởng. Ký ức từ thuở ấu thơ đến nay cứ từng đợt trở về, nhất là những lời Thầy dạy, càng nghiền ngẫm càng thấm thía. Mỗi lời ngắn gọn, súc tích mà chứa đựng cả vô vàn triết lý sống sâu sắc, như dòng suối mát lành nuôi dưỡng tâm con mãi với thời gian.

….

Buổi hoàng hôn hôm ấy như tấm lụa vàng đã úa màu, khẽ khép lại ngày dài và mở ra một đêm tĩnh mịch. Ánh dương cuối cùng còn sót lại chỉ đủ nhuộm vàng mái ngói chùa xưa. Gió mang hơi sương se lạnh, khiến cảnh vật càng thêm u tịch. Con đường từ quốc lộ vào chùa nay đã khác xưa, xe cộ tấp nập, hàng quán san sát. Ấy thế mà khi bước qua cổng tam quan, con như đi vào một thế giới khác. Một sự tương phản đến nhói lòng: giữa chốn ồn ã kia, không gian nơi đây vẫn trầm mặc, khiến người đệ tử năm nào – vốn sinh trưởng trong ngôi chùa này, phải khẽ giật mình. Một cái tát nhẹ vào tâm thức: mọi phù hoa, hào nhoáng của thế gian phút chốc trở nên phù phiếm và hời hợt.

Theo thói quen từ bao năm, con đi tìm đến phương trượng của Thầy. Nhưng nơi con tìm thấy Thầy không phải trong chính điện uy nghiêm, mà là ngoài khu vườn chùa, nơi đây như thiền thất hằng ngày của Thầy. Thầy trong bộ nâu sòng cũ kỹ, sờn màu, đang an nhiên cúi mình vun xới từng gốc mai, chăm chút tỉ mỉ uốn sửa từng cành nhỏ. Thậm chí, những gốc tiêu bị bệnh đã khô cằn, Thầy vẫn kiên nhẫn chăm bón với tâm thái trang trọng vô cùng. Đôi tay Thầy lấm đất, rám nắng in hằn dấu vết thời gian, nhưng sự chậm rãi, khoan thai trong từng động tác lại khiến Thầy trở nên uy nghi và vĩ đại đến diệu kỳ. Sự thanh bần tự nguyện này chính là một hình tướng vô ngôn, một khí chất kiên định được tôi luyện qua tháng năm, không bị lay động bởi bất cứ hình tướng nào của thế gian.

Ánh mặt trời càng yếu dần, từng đàn muỗi túa ra dày đặc, nhưng Thầy vẫn thản nhiên. Con nhớ lại thuở hành điệu cùng Thầy làm vườn rẫy, đây không phải lần đầu tiên bên Thầy, nhưng lòng con cảm thấy tràn ngập sự tôn kính cùng nhiều suy nghĩ. Những suy tư ấy thôi thúc con mạnh dạn thưa hỏi. Con nhìn căn nhà vách đất mái lá đã tồn tại gần nửa thế kỷ, rồi nhìn ra khu vườn tiêu điều và mấy luống khoai mì trơ gốc: “Bạch Thầy, tâm con vẫn chấp trước vào hình tướng. Trong giới Tăng Ni, Phật tử ở vùng này đa phần ai cũng biết Thầy là bậc thông tuệ, có đủ trí đức, uy tín và khả năng để kiến tạo một phạm vũ huy hoàng, một biểu tượng để Đạo Pháp được tôn vinh. Thầy đáng lẽ phải sống trong cảnh sang trọng, được cung kính, cớ sao lại an nhiên trong căn nhà vách đất này, khước từ nhiều điều kiện vật chất mà cuộc sống hiện tại cho là rất bình thường. Sự lựa chọn này có phải là lãng phí tài năng, hay là trốn tránh trách nhiệm lớn lao?”.

Lúc đó Thầy chậm rãi đặt chiếc bình nước “hồ lô” xuống. Ánh mắt từ bi của bậc Ân Sư nhìn thấu tâm con. Thầy mỉm cười, một nụ cười ẩn chứa cả một đời tu tập: “Này con, sự giản dị và thanh bần này không phải lãng phí, mà là sự thông minh trong việc sử dụng năng lực. Thường tình, sự sang trọng và danh vọng là những dây trói bằng trang sức xa hoa, là cái bẫy tinh vi có thể dẫn đến tạo tác nghiệp ác. Nếu chưa đủ trí tuệ và phước báo mà Thầy cứ cố gắng để xây dựng hình tướng hữu hạn, tâm lực của Thầy sẽ bị phân tán để quản lý nó, để bảo vệ sự vinh hoa đó, để tranh đoạt và so sánh với thế gian. Bậc trí giả không chấp nhận biến tài năng phi thường của mình thành nô lệ cho hình tướng phù du. Thầy hy sinh sự tiện nghi nhất thời, chọn lối sống thanh bần, để dồn vào việc vun bồi Tuệ mạng cho các con. Đó là trí tuệ của bậc hành giả để bảo toàn khí tiết của trưởng tử Như Lai trong cõi đời này.”

Tượng Phật Thích Ca Nhập Niết Bàn

Thầy lại từ tốn nói: “Nhưng con à, sự hy sinh này không hề dễ dàng. Khi chọn lối sống này, Thầy từng trải qua bao tranh đấu nội tâm, cuộc chiến thầm lặng giữa lý trí muốn vô ngã và cảm xúc muốn được công nhận. Thầy đã phải dùng trí tuệ chân thật để chữa lành vết thương do việc từ bỏ ước vọng cá nhân. Như khu vườn mai này, mỗi gốc cây lớn đều từng nhỏ bé như sợi cỏ, phải qua nắng hạn, uốn nắn, chịu đựng khắc nghiệt mới vươn thành dáng đẹp. Cái tôi của chúng ta cũng vậy, chỉ có qua rèn luyện và nhẫn nại mới được thuần phục. Sự thanh bần, khi ấy, không còn là sự chịu đựng, mà là lẽ sống tự nhiên, cảnh giới tự tại của bậc hiền giả.”

Các huynh đệ đi học về, cùng ra vườn đảnh lễ Sư phụ. Muỗi đốt râm ran, ai nấy cử động liên hồi, riêng Thầy vẫn thản nhiên, đôi mắt nhìn xa xăm nơi chân trời chiều tối. Thầy hiền hòa tiếp lời: “Đạo lý của sự hy sinh để giữ phẩm giá là chân lý của mọi điều cao quý. Con nhìn xem, trong cuộc đời này, giữ lòng thủy chung trong tình yêu, giữ đạo hiếu với mẹ cha đều là những cuộc chiến âm thầm của tâm thức. Người ta có thể dễ dàng thề nguyện, nhưng để sống trọn lời hứa ấy qua tháng năm, qua cám dỗ danh lợi, qua nhan sắc phai tàn và những nhàm chán đời thường… đó là chiến thắng lớn nhất. Thủy chung không phải là thiếu cám dỗ, mà là biết chọn chiến thắng cái tôi.”

“Đạo Hiếu cũng vậy. Chăm sóc cha mẹ già yếu, hy sinh bao cơ hội cá nhân, chịu đựng bao nhọc nhằn, ấy là sự thủy chung với nguồn cội. Mọi điều cao quý, từ khí tiết của bậc Thích tử cho đến nhân nghĩa đời thường, đều phải được xây nên từ sự nhẫn nại và trí tuệ chuyển hóa.”

Nghe Thầy nói, con, dù đã bước qua tuổi bốn mươi, từng nếm trải phong sương bỗng thấy mình nhỏ bé vô cùng. Bên Thầy, con như được tắm gội trong suối nguồn khai thị. Con hiểu ra: Sự giản dị của Thầy là biểu tượng của Từ bi và Trí tuệ. Sự hy sinh ấy là tấm gương về lòng kiên cường và trung thành với lý tưởng, bài học bất diệt về cách giữ gìn giá trị cốt lõi.

Ảnh Tu Viện Từ Ân Melbourne - Úc Châu
Tu Viện Từ Ân Melbourne – Úc Châu

Trên đường trở lại Úc, lòng con vẫn miên man nhớ lời Thầy dạy. Những hình ảnh thân thương của Thầy cứ hiện về, như một oai đức vô tác cho đời sống của con. Giữa chốn đời cám dỗ, có những lúc con yếu lòng, nhưng rồi lại tự nhắc: Thầy vẫn đang dõi theo, âm thầm gia hộ, nâng đỡ con trên hành trình đạo nghiệp.

Chiều xuân ở Úc, nắng trong xanh, vườn cải vàng óng ánh, bướm bay dập dìu. Giữa khung cảnh ấy, con bỗng thấy hình bóng Thầy, dáng người hiền hậu trong buổi chiều làm rẫy, ánh mắt từ bi giữa sân chùa bình dị, nhớ vườn Mai chốn Tổ năm nào, lúc Thầy thân lâm đến Từ Ân…công hạnh của Thầy, cao cả như trời xanh mà bình dị như đất, khiến lòng con xúc động dâng trào. Con lặng lẽ chắp tay tưởng niệm:

Ngao du trong cõi Ta-bà,

Khi nơi đồng nội,

Lúc thời vườn Mai.

Thân hòa với bụi trần ai,

Mà tâm vẫn sáng chẳng phai đạo mầu.

 Lợi danh chẳng bận chi đâu,

 Một lòng thanh tịnh nhiệm mầu an nhiên.

Scroll to Top